Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016

6 nhân tố tạo nên tính hiệu quả của chỉ số KPI

6 nhân tố tạo nên tính hiệu quả của chỉ số KPI

(VietQ.Vn) - Các doanh nghiệp có thể sử dụng chỉ số kiểm tra thực hành công tác (Key Performance Indicator – KPI) để theo dõi tiến trình thực hành mục tiêu của tập thể hoặc cá nhân.

Doanh nghiệp cần nắm rõ 6 nhân tố dưới đây để có thể tối ưu hóa chỉ số KPI kiểm tra thực hành công tác.

Đơn giản

KPI chỉ thực thụ trở thành hữu dụng nếu chỉ số này cần phải dễ hiểu và dễ đánh giá, ví dụ: một KPI như “tháng này tổ chức đã thêm được bao lăm khách hàng” được đánh giá là đơn giản ở cả hai góc cạnh. Mỗi một nhân sự có liên quan đến quá trình đạt được mục đích nên biết cách tận dụng KPI. Nếu mục đích được đề ra một cách rõ ràng như “thêm bao nhiêu khách hàng”, thì nhân viên có thể tự đưa ra những quyết định mang tính chủ động để thúc đẩy đến kết quả.

Sắp đặt theo thứ tự

Chỉ số KPI nên đánh giá từ mục đích chiến lược tổng quan của cả một đoàn thể cho đến hoạt động hàng ngày của từng nhân viên có ảnh hưởng đến quá trình tiến tới mục đích. Một số tổ chức chỉ lưu ý đến việc thu hút được lượng khách hàng cố định, một số khác lại không đồng nhất mục tiêu này với tầm nhìn chung. Thí dụ như: tổ chức chuyên về dịch vụ chăm chút khách hàng sẽ tập hợp vào việc níu giữ hơn là thu hút khách hàng. Hãy kiên cố rằng KPI luôn đưa ra được mục tiêu chung của cả đoàn thể.



Hợp lý

Một nguyên tố quan yếu khác của KPI là tính hợp lý, điều này có nghĩa rằng những người đưa ra quyết định hợp lý sẽ làm tạo ra được KPI hiệu quả. Ví dụ, một KPI với nội dung “đơn vị đã bán được bao nhiều mặt hàng trong thời kì diễn ra sự kiện” nên là KPI do giám đốc marketing đưa ra. Quá trình kiểm tra sẽ chuyên nghiệp hơn và kết quả rốt cuộc cũng thành công hơn nhờ việc chỉ định người có nhiệm vụ phù hợp làm KPI.

Dễ kiểm tra

Để có thể phân tích được tiến trình đạt mục tiêu đang tốt hay chưa tốt thì KPI cần phải dễ đánh giá, ngoài ra không nhất thiết lúc nào cũng phải là những đánh giá về mặt chất lượng như “doanh nghiệp đã bán được bao nhiêu sản phẩm vào cuối tháng trước”, hay cũng có thể thúc đẩy đến chất lượng như “các viên chức cống hiến như nào cho công tác của họ”, trường hợp thứ hai có để đánh giá phê duyệt khảo sát đúng chuẩn cho dù chủ thể không phải là số liệu. Hãy bảo đảm rằng KPI luôn dựa trên những mục tiêu chắc chắn và tụ tập như doanh thu, tiếp thị hay độ hài lòng của khách hàng.

Thực tại

KPI cần được đưa ra dựa trên mục đích có thể đạt đến được. Mục đích của KPI càng thực tế thì khả năng nhân viên hoàn thành mục tiêu càng cao. Thay vì đặt ra những mục tiêu quá to lớn và không thực tế hãy chọn những mục tiêu nhỏ trước, tỉ dụ: đặt ra mục tiêu tháng khiến nhân viên cảm nhận được động lực muốn vượt qua thách thức chứ không phải khiến họ nản chí. Thời gian thực hành ngắn cùng mục tiêu nhỏ lẻ cũng là một cách giúp doanh nghiệp phát triển đồng bộ hơn.

Phổ quát

nhân tố quan trọng khác giúp KPI trở thành hiệu quả là tính phổ thông của chỉ số này trong công ty, khi tất cả các nhân viên đều nhận thức rõ mục tiêu chung của doanh nghiệp thì quá trình phát triển sẽ dễ dàng hơn. Mặc dầu nhiều phòng ban trong một tổ chức không tham gia trực tiếp vào công cuộc thực hành KPI nhưng khiến mục đích trở thành phổ quát sẽ khiến viên chức cống hiến cho công tác hơn, song song đặt nền móng tiêu chuẩn cho các chương trình khác trong mai sau.

Đinh Ly
Sưu tầm: download sách quản lý nhân viên
Sưu tầm:  cách viết đơn xin việc